Với vị thế là một trong những cực tăng trưởng năng động nhất cả nước, Hải Phòng đang chuyển mình mạnh mẽ từ “điểm đến FDI” thành trung tâm kiến tạo môi trường đầu tư đẳng cấp quốc tế. Đáng chú ý, sức hấp dẫn của Hải Phòngkhông chỉ đến từ hạ tầng hiện đại hay chính sách ưu đãi, mà còn ở tầm nhìn phát triển dựa trên thể chế minh bạch, cải cách thực chất và cam kết đồng hành cùng doanh nghiệp, nền tảng để thành phố bước vào “kỷ nguyên FDI mới” với chất lượng và giá trị lan tỏa cao hơn.
Xung quanh vấn đề này, Tạp chí Đầu tư Tài chính – VietnamFinance có cuộc trò chuyện với TS. Lê Duy Bình, Chuyên gia kinh tế, Giám đốc Economica Việt Nam.

- Ông đánh giá thế nào về bức tranh thu hút FDI của Hải Phòng trong thời gian qua, đặc biệt là sự chuyển hướng từ “số lượng sang chất lượng” dòng vốn?
TS. Lê Duy Bình: Bằng những nỗ lực mạnh mẽ nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, môi trường đầu tư, thành phố Hải Phòng là một trong những địa phương hàng đầu trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). TP. Hải Phòng đã khẳng định được vị thế là một cực tăng trưởng quan trọng của cả nước với những thành tựu đột phá và bền vững.
Một số dấu ấn nổi bật thành phố đã đạt được như trong 4 năm liên tiếp Hải Phòng luôn nằm trong top 5 thành phố dẫn đầu về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), trong đó năm 2021 dẫn đầu cả nước với số vốn đầu tư nước ngoài thu hút đạt trên 5 tỷ USD. Tính đến nay TP. Hải Phòng sau hợp nhất có có 1.731 dự án FDI với số vốn đăng ký 50,1 tỷ. Các khu công nghiệp (KCN), khu kinh tế (KKT), nổi bật là KKT Đình Vũ - Cát Hải, KCN Nam Đình Vũ, KCN VSIP Hải Phòng, KCN DEEP C 1&2, KCN Tràng Duệ… thu hút hàng loạt tập đoàn đa quốc gia, các nhà đầu tư lớn như tập đoàn LG (gồm LG Electronic, LG Innotek, LG Display và LG Chem), Tập đoàn SK, công ty Pegatron, công ty Bridgestone, hãng xe Ford... với những dự án có quy mô lớn, công nghệ hiện đại. Sự có mặt của các tập đoàn quốc gia lớn và hoạt động trong các lĩnh vực công nghệ cao với các định hướng phát triển bền vững là một trong nhiều chỉ dấu cho thấy sự chú trọng vào chất lượng của dòng vốn đầu tư FDI của thành phố.

Dòng vốn FDI đã góp phần thay đổi ngành công nghiệp thành phố với những sản phẩm tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. TP. Hải Phòng đã thu hút được doanh nghiệp FDI với thương hiệu mạnh, giá trị kinh tế cao như: tập đoàn LG, General Electrics (GE), Ford Việt Nam, LS Vina, Pegatron, Bridgestone. Các dự án đầu tư của những tập đoàn điện tử lớn và hàng chục doanh nghiệp vệ tinh đã biến Hải Phòng trở thành một trong những trung tâm sản xuất điện tử của cả nước.
Trong lĩnh vực thương mại, Hải Phòng thu hút được dự án FDI có số vốn lên tới hàng trăm triệu USD, đó là dự án đầu tư Trung tâm thương mại Aeon Mall Hải Phòng, Dự án Trung tâm thương mại Aeon Hải Dương. Các dự án này góp phần xây dựng hạ tầng thương mại thành phố theo hướng văn minh, hiện đại.
Chất lượng của dòng vốn FDI cũng có thể được nhìn nhận từ góc độ góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, góp phần nâng cao hiệu quả về chuyển giao công nghệ và quản trị hiện đại, đào tạo đội ngũ lao động lành nghề, hiệu suất làm việc cao, năng động.
- Vậy, trong quá trình đó, đâu sẽ là những đóng góp nổi bật nhất của dòng vốn FDI đối với Hải Phòng trong thời gian qua, thưa ông?
TS. Lê Duy Bình: Dòng vốn FDI đã đóng góp lớn vào tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Tính đến nay, cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài trung bình hàng năm chiếm khoảng 30% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội. Đây là một nguồn lực vô cùng quan trọng đóng góp cho nền kinh tế của Thành phố.
Nguồn vốn FDI cũng đóng góp quan trọng vào giá trị xuất khẩu của thành phố với kim ngạch xuất khẩu khu vực FDI chiếm khoảng trên 80% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của TP Hải Phòng.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng đóng góp cho tăng nguồn thu ngân sách. Số thu ngân sách nhà nước từ khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài luôn tăng trưởng đã góp phần phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. Ước tính các doanh nghiệp FDI hiện đang đóng góp khoảng 20% tổng số thu ngân sách của thành phố.
Đặc biệt, nguồn vốn FDI đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, góp phần xây dựng Hải Phòng thành một cứ điểm sản xuất các sản phẩm điện tử, tin học, hình thành trung tâm sản xuất điện tử, bán dẫn của khu vực.
Nguồn vốn FDI cũng đóng góp quan trọng cho việc tạo việc làm, góp phần đảm bảo về an sinh xã hội, và cơ hội nâng cao trình độ cho người lao động. Số lượng lao động tại các tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng dần hàng năm. Tính đến nay, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã thu hút và tạo việc làm cho khoảng 550.000 lao động.

- Vậy, theo quan sát của ông, yếu tố nào giúp Hải Phòng vươn lên thành điểm sáng FDI của miền Bắc, và liệu lợi thế đó có bền vững trong trung – dài hạn?
TS. Lê Duy Bình: Yếu tố hàng đầu, quan trọng nhất và có khả năng duy trì được lợi thế bền vững trong trung, dài hạn là các nỗ lực của Thành phố trong việc cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh nhằm thực sự biến Hải Phòng thành “điểm đến chiến lược của kỷ nguyên mới”.
Trong gần bốn thập niên vừa qua, chính quyền, cộng đồng doanh nghiệp và người dân Hải Phòng đã không ngừng nỗ lực để phát huy các thế mạnh của mình, cải cách thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng thực thi chính sách, quy định pháp luật, thực hiện các chiến lược thu hút, xúc tiến đầu tư để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Và các nỗ lực này vẫn đang và sẽ được triển khai mạnh mẽ và đã mang lại những kết quả rất tích cực.
Năm 2024, là năm đầu tiên thành phố được cộng đồng doanh nghiệp ghi nhận, đánh giá là địa phương giữ vị trí thứ nhất các tỉnh, thành phố về Chỉ số PCI, sau 7 năm xếp hạng trong Top 10 cả nước. Với kết quả này, năm 2024, Hải Phòng đã đứng đầu bảng xếp hạng 03 chỉ số uy tín về cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh gồm: Chỉ số Cạnh tranh cấp tỉnh năm 2024 (PCI); Chỉ số Cải cách hành chính 2024 (PAR Index); Chỉ số hài lòng của người dân đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước (SIPAS) năm 2024. Những kết quả này đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc cải thiện môi trường kinh doanh và thu hút đầu tư của thành phố.
Hải Phòng cũng chủ động, sáng tạo thực hiện rất hiệu quả Đánh giá Năng lực Cạnh tranh cấp Sở, Ban, Ngành và Địa phương (DCCI). Thành phố đã kiên trì thực hiện bộ chỉ số này liên tục trong nhiều năm vừa qua.
Cùng với bộ chỉ số PCI, DCCI đã trở thành công cụ quan trọng giúp Hải Phòng đổi mới tư duy điều hành, nâng cao hiệu quả quản trị, lan tỏa kinh nghiệm cải cách và phản ánh tiếng nói của cộng đồng doanh nghiệp. Đây cũng là cơ sở để thành phố đánh giá, điều chỉnh kịp thời các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh.

- Ngoài ra còn có các yếu tố nào giúp Hải Phòng khẳng định vị thế là “điểm đến chiến lược của kỷ nguyên mới” đối với các nhà đầu tư FDI cũng như các nhà đầu tư trong nước?
TS. Lê Duy Bình: Những nỗ lực cải thiện các yếu tố hạ tầng mềm, môi trường đầu tư như, nâng cao chất lượng về thể chế đề cập ở trên được thực hiện song song cùng các biện pháp nhằm nâng cao năng lực cơ sở hạ tâng cứng như cảng biển, sân bay, đường cao tốc, đường sắt, hệ thống viễn thông, cơ sở hạ tầng năng lượng, hạ tầng các khu công nghiệp, khu kinh tế và các nỗ lực nhằm xây dựng một cơ sở hạ tầng hiện đại, chất lượng nguồn nhân lực cao của thành phố.
Sau sáp nhập, thành phố Hải Phòng tiếp tục tập trung nguồn lực cho việc mở rộng không gian kinh tế, triển khai Khu Kinh tế ven biển phía Nam quy mô 20.000 ha, định hướng phát triển mô hình khu kinh tế xanh, sinh thái, hiện đại, ưu tiên thu hút các ngành công nghệ cao, năng lượng tái tạo, logistics thông minh, gắn liền với mục tiêu Net Zero.
Đồng thời, thành phố tiếp tục mở rộng, hoàn thiện hạ tầng các khu công nghiệp hiện hữu như Tràng Duệ, Deep C, VSIP, Nam Đình Vũ, Nam Cầu Kiền và phát triển thêm 12 khu công nghiệp mới với tổng diện tích hơn 3.202 ha cả về phía Đông và phía Tây thành phố, tạo ra dư địa đầu tư rộng lớn để mời gọi các nhà đầu tư; đẩy nhanh thủ tục triển khai các bến số 7, số 8 Khu bến cảng container tại Lạch Huyện; mở rộng, nâng cấp cảng hàng không quốc tế Cát Bi; triển khai thi công mạnh mẽ đường vành đai 2, triển khai đường vành đai 3 và tuyến đường trục nối Đông Tây thành phố nhằm kết nối giao thông trong thành phố; tích cực phối hợp để sớm có thể triển khai tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng nhằm tiếp tục tạo động lực cho phát triển dịch vụ - logistics của thành phố, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư có hoạt động đầu tư kinh doanh tại thành phố.
Việc sáp nhập các tỉnh thành đã giúp thành phố mở rộng không gian tăng trưởng với diện tích khoảng 3.200 km2. Dân số của thành phố hiện nay đã lên tới gần 4,7 triệu người. Lực lượng lao động dồi dào với trình độ chuyên môn, tay nghề, kỷ luật lao động ngày một được nâng cao cũng là một yếu tố cạnh tranh mạnh mẽ của thành phố.
Thành phố Hải Phòng cũng đã bắt tay vào việc xây dựng khu thương mại tự do, với hai giai đoạn phát triển tới 2030 và 2035. Đây sẽ là khu thương mại tự do tổng hợp đầu tiên của miền Bắc, kỳ vọng tạo cú hích cho tăng trưởng GRDP, tái cấu trúc chuỗi giá trị công nghiệp - logistics tại Hải Phòng và vùng Bắc Bộ, đồng thời cũng tạo ra những lợi thế cạnh tranh rất khác biệt để Hải Phòng trở thành điểm “điểm đến chiến lược của kỷ nguyên mới” đối với các nhà đầu tư FDI cũng như các nhà đầu tư trong nước.

- Cơ cấu FDI hiện nay của Hải Phòng cho thấy sự tập trung vào các tập đoàn lớn nước ngoài. Theo ông, điều này mang lại tác động lan tỏa như thế nào tới doanh nghiệp trong nước?
TS. Lê Duy Bình: Đến nay, trên địa bàn thành phố có gần 45.000 doanh nghiệp tư nhân trong nước đang doanh nghiệp đang hoạt động. Khu vực kinh tế tư nhân đóng góp trên 40% GRDP, trên 50% thu ngân sách nội địa, tạo việc làm cho khoảng 50% lao động. Khoảng 16 doanh nghiệp tư nhân của thành phố Hải Phòng nằm trong Top 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam.
Nhiều doanh nghiệp đẩy mạnh đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất, mở rộng thị trường; đặc biệt ở các lĩnh vực chủ lực, vươn lên khẳng định vị thế trong công nghiệp chế biến, thương mại – dịch vụ, cảng biển, logistics. Đội ngũ doanh nhân phát triển cả số lượng và chất lượng, thể hiện bản lĩnh, sáng tạo, tham gia ngày càng sâu vào chuỗi giá trị trong nước và quốc tế, qua đó đóng góp tích cực vào GRDP và giúp Hải Phòng giữ vững vai trò đầu tàu kinh tế vùng Duyên hải Bắc Bộ.
Nhưng cũng phải thừa nhận một thực tế là mối liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp FDI vẫn còn hạn chế.
Mặc dù khu vực đầu tư nước ngoài đã có những đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy xuất khẩu, tạo việc làm và nâng cao năng lực sản xuất trong nhiều lĩnh vực, nhưng tác động lan tỏa đối với khu vực kinh tế trong nước vẫn còn hạn chế. Các doanh nghiệp FDI chủ yếu tập trung vào mục tiêu mở rộng thị phần, tận dụng ưu đãi về môi trường đầu tư, mà chưa thực sự quan tâm tới việc hình thành các mối liên kết bền chặt với doanh nghiệp trong nước. Tỷ lệ nội địa hóa tại nhiều ngành sản xuất, đặc biệt là trong công nghiệp chế biến, chế tạo, vẫn ở mức thấp. Sự kết nối giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nội địa chưa phát triển tương xứng với tiềm năng.
Bên cạnh đó, chuyển giao công nghệ từ khu vực FDI sang khu vực doanh nghiệp trong nước còn rất khiêm tốn, chưa đáp ứng kỳ vọng. Điều này dẫn đến khoảng cách về năng lực cạnh tranh, trình độ công nghệ và quản trị giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI ngày càng gia tăng.
Đây là một hạn chế, đòi hỏi phải có chính sách và giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ hơn để phát triển doanh nghiệp trong nước, thúc đẩy liên kết, phát triển công nghiệp hỗ trợ, khuyến khích chuyển giao công nghệ, từ đó bảo đảm tác động lan tỏa của khu vực đầu tư nước ngoài đối với nền kinh tế trong nước, đặc biệt là về công nghệ, công tác quản trị, quản lý, chất lượng của sản phẩm, dịch vụ, tính liên kết với chuỗi cung ứng toàn cầu.

- Thể chế và môi trường đầu tư của Hải Phòng đã đủ sức cạnh tranh chưa, nếu đặt trong so sánh với Quảng Ninh hay Bắc Ninh – hai địa phương cùng vùng trọng điểm Bắc Bộ?
TS. Lê Duy Bình: Trong thời gian qua, Hải Phòng cũng như các địa phương khác trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đều có những nỗ lực đặc biệt trong công tác cải cách thể chế, cải thiện môi trường đầu tư. Các tỉnh, thành phố trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ hiện đều nằm trong top đầu của Chỉ số Năng lực Cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) do Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) công bố.
Tính liên kết vùng giữa các tỉnh, thành phố trong vùng cũng ngày được cải thiện nhờ các công trình giao thông, cơ sở hạ tầng trọng điểm được triển khai thực hiện mạnh mẽ, quyết liệt trong thời gian vừa qua, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của từng tỉnh, thành phố và của cả vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.
Bên cạnh đó, Hải Phòng còn có những lợi thế đặc biệt nhờ những cơ chế đặc thù, vượt trội dành cho Thành phố. Ngày 27/6/2025, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 226/2025/QH15, tạo lập khuôn khổ pháp lý đặc thù, minh bạch và thuận lợi nhằm thu hút đầu tư chiến lược cho thành phố Hải Phòng. Với các cơ chế vượt trội về tài chính, đất đai, thuế, khoa học – công nghệ, cùng việc thí điểm thành lập Khu thương mại tự do theo chuẩn mực quốc tế, Hải Phòng đang từng bước hình thành một môi trường đầu tư mang tầm cạnh tranh toàn cầu.
Đây không chỉ là động lực tăng trưởng kinh tế mới mà còn là thời cơ quan trọng để các nhà đầu tư, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo tiên phong, đồng hành cùng Việt Nam nói chung và cùng Hải Phòng nói riêng trong tiến trình phát triển nhanh, hiện đại và hội nhập sâu rộng, mang lại sức hút mạnh mẽ với các nhà đầu tư trong đó có các nhà đầu tư nước ngoài.
- Để duy trì sức hút FDI chất lượng cao, ông cho rằng Hải Phòng cần ưu tiên cải cách gì trong giai đoạn tới – thủ tục hành chính, quy hoạch, hay chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nội địa?
TS. Lê Duy Bình: Để duy trì sức hút đối với nguồn vốn đầu tư chất lượng cao, đặc biệt là nguồn vốn FDI, cần luôn xác định doanh nghiệp là lực lượng tiên phong, là động lực quan trọng của sự nghiệp đổi mới và hội nhập. Các nỗ lực của thành phố cần luôn đồng hành, hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi nhất để doanh nghiệp phát triển bền vững, thành công.
Trong quá trình này, ưu tiên cao nhất vẫn là đẩy mạnh các nỗ lực nhằm cải cách thể chế, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính một cách toàn diện, đồng bộ, công khai, minh bạch; tăng cường ứng dụng công nghệ số trong quản lý, điều hành; rút ngắn tối đa thời gian giải quyết thủ tục, nâng cao chất lượng phục vụ, lấy sự hài lòng của người dân và doanh nghiệp làm thước đo quan trọng nhất về hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền.

Thành phố cần bảo đảm môi trường đầu tư ổn định, minh bạch, an toàn, chi phí thấp, đạt chuẩn mực quốc tế. Thành phố cần nỗ lực bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhà đầu tư và doanh nghiệp, duy trì thường xuyên các kênh đối thoại, lắng nghe, tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc, củng cố niềm tin và sự gắn bó lâu dài của cộng đồng doanh nghiệp.
Cơ sở hạ tầng, đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư chất lượng cao. Thành phố cần tập trung huy động và bố trí hiệu quả các nguồn lực để triển khai các dự án, quy hoạch trọng điểm, liên kết vùng; đặc biệt là những công trình hạ tầng động lực đã được phê duyệt; bảo đảm tiến độ, chất lượng và hiệu quả đầu tư, qua đó tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững, lâu dài của thành phố.
Với thế mạnh về dân số, Thành phố cần chú trọng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Thành phố sẽ phối hợp chặt chẽ với doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo trong việc đào tạo nghề, nâng cao kỹ năng, bồi dưỡng ngoại ngữ, kỹ năng số và quản trị hiện đại; đồng thời thu hút các chuyên gia, nhà khoa học, hình thành đội ngũ lao động có trình độ cao, đủ năng lực làm chủ công nghệ và đáp ứng yêu cầu phát triển trong bối cảnh mới.
Bên cạnh đó, thành phố cũng cần thực hiện hiệu quả các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp, nhà đầu tư, đẩy mạnh hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi sản xuất để đáp ứng các tiêu chuẩn mới, tiêu chuẩn xanh, phát thải các-bon, phát triển bền vững, đẩy mạnh xúc tiến xuất khẩu các sản phẩm kinh tế xanh, thân thiện với môi trường. Hỗ trợ doanh nghiệp khai thác hiệu quả cơ hội từ 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký kết; mở rộng, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, nhất là các quốc gia mới nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược và chiến lược toàn diện với Việt Nam.
- Xu hướng FDI toàn cầu đang thay đổi sau dịch và chuyển dịch chuỗi cung ứng. Theo ông, Hải Phòng nên định vị vai trò như thế nào trong bức tranh FDI mới của Việt Nam?
TS. Lê Duy Bình: Với mục tiêu là “Điểm đến chiến lược của Kỷ nguyên mới” của mình, Hải Phòng nên định vị là trở thành một địa điểm thu hút đầu tư mang tầm cạnh tranh toàn cầu. Hải Phòng sẽ đóng vai trò là điểm đến chiến lược cho các nhà đầu tư trong các lĩnh vực công nghệ cao, điện tử, chip, bán dẫn, năng lượng xanh, và những ngành công nghiệp mới có tiềm năng như xe điện, năng lượng xanh, dịch vụ logistics.
Đây không chỉ là động lực tăng trưởng kinh tế mới mà còn là thời cơ quan trọng để các nhà đầu tư, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo tiên phong đồng hành cùng Việt Nam nói chung và cùng Hải Phòng nói riêng trong tiến trình phát triển nhanh, hiện đại và hội nhập sâu rộng; mang lại sức hút mạnh mẽ với các nhà đầu tư trong đó có các nhà đầu tư nước ngoài.
Hải Phòng cần kiên trì định hướng thu hút đầu tư có chọn lọc, không thu hút đầu tư bằng mọi giá, không thu hút những dự án có nguy cơ ô nhiễm môi trường. Do đó, thách thức đặt ra là thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế-xã hội nhưng phải bảo đảm sự phát triển bền vững và gắn kết chặt chẽ với giữ vững an ninh, chính trị, quốc phòng.

- Nếu được gửi ba khuyến nghị cho lãnh đạo thành phố Hải Phòng, ông sẽ ưu tiên những giải pháp nào để dòng vốn FDI trở thành động lực thực sự cho tăng trưởng bền vững?
TS. Lê Duy Bình: Thứ nhất, thành phố Hải Phòng sẽ kiên định và quyết liệt hơn nữa trong công tác cải thiện môi trường kinh doanh, môi trường đầu tư, đẩy mạnh các nỗ lực nhằm cải cách thể chế, cải cách thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng quản trị công, đảm bảo môi trường kinh doanh và đầu tư của Hải Phòng có tính cạnh tranh cao, đạt chuẩn quốc tế và thực sự hấp dẫn với các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Thứ hai, thành phố cần đẩy mạnh các nỗ lực nhằm phát triển kinh tế tư nhân, các doanh nghiệp thuộc kinh tế tư nhân. Việc thu hút nguồn vốn FDI là quan trọng, nhưng cần có các ưu tiên cao hơn nữa nhằm phát triển kinh tế tư nhân, nâng cao tính tự lực, tự cường của nền kinh tế. Phát triển kinh tế tư nhân, nâng cao năng lực của các doanh nghiêp Việt sẽ giúp các doanh nghiệp Việt sẽ dần làm chủ công nghệ, đổi mới sáng tạo, vươn cao hơn trong nấc thang giá trị gia tăng trong chuỗi cung ứng toàn cầu, hình thành ngành công nghiệp nội địa trong nước có sức cạnh tranh và có tính liên kết cao với chuỗi giá trị toàn cầu. Đây cũng là cơ sở để củng cố sự kết nối giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nội địa, đẩy mạnh việc chuyển giao công nghệ từ khu vực FDI sang khu vực doanh nghiệp trong nước.
Thứ ba đó là việc đẩy mạnh cách chính sách để tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển dịch sang mô hình kinh tế dựa trên công nghệ, dựa trên tri thức và dựa trên đổi mới sáng tạo và trong đó các doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong và ngoài nước sẽ đóng vai trò là lực lượng tiên phong. Các doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong và ngoài nước sẽ được khuyến khích đầu tư để ứng dụng và phổ biến công nghệ đồng thời đẩy mạnh đổi mới, sáng tạo.
Thành phố sẽ thực hiện các chính sách để thúc đẩy quá trình này, đặc biệt là các chính sách nhằm tạo một môi trường kinh doanh an toàn, khuyến khích tinh thần khởi nghiệp, tinh thần đầu tư mạo hiểm của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư. Để hỗ trợ cho các nỗ lực này của các doanh nghiệp, thành phố cần mạnh dạn thực hiện các chính sách hoặc cơ chế về thử nghiệm có kiểm soát.
Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh các nỗ lực nhằm hoàn thiện cơ sở hạ tầng hiện đại, đồng bộ để hỗ trợ các nhà đầu tư, hình thành hệ sinh thái hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư đổi mới sáng tạo, và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, tay nghề giỏi để tạo điều kiện tốt nhất cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước triển khai các ý tưởng kinh doanh, các sản phẩm, dịch vụ, công nghệ mới, sáng tạo tại Hải Phòng.
Ngoài hình ảnh “điểm đến chiến lược của Kỷ nguyên mới”, Hải Phòng sẽ là thành phố của đổi mới sáng tạo và là đất lành cho cho các nhà đầu tư khởi nghiệp, nhà đầu tư trong và ngoài nước với những hoài bão, ý tưởng về các công nghệ mới, sản phẩm, dịch vụ mới có tính sáng tạo, hàm lượng công nghệ và tri thức cao.
Trân trọng cảm ơn ông!
Nguyễn Kim thực hiện! - 23/10/2025